Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2021

NGÀY THÀNH LẬP MỘT SỐ ĐƠN VỊ CÔNG BINH CHỦ YẾU

       
 CÔNG CHÍNH GIAO THÔNG CỤC
: Được thành lập theo sắc lệnh số 34 của Bộ Quốc phòng ngày 25 tháng 3 năm 1946. Ngày 2 tháng 12 năm 1946 Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh ra lệnh số 5 - VMP / ĐB chuyển công giao cục thông tin thành Cục giao thông công binh.



TRUNG ĐOÀN CÔNG BÌNH 151: Được thành lập theo quyết định số 44 / QĐ của Bộ Tổng Tham mưu. Ngày 15 tháng 1 năm 1951 lễ chính thức thành lập Trung đoàn. Ngày 23 tháng 1 năm 1951 Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng phê chuẩn công việc thành lập và bổ nhiệm các chốt của đơn vị. Trung đoàn trưởng: Phạm Hoàng, Chính ủy: Lê Khắc.

PHÒNG CÔNG AN BỘ QUỐC PHÒNG: Được thành lập theo Nghị định số 26 / BQP- TTL ngày 17 tháng 8 năm 1954: Chủ nhiệm: Phạm Hoàng, Phó chủ nhiệm: Nguyễn Văn Nhạn.

CỤC CÔNG BÌNH: Được thành lập theo quyết định số 170 / QĐ ngày 3 tháng 11 năm 1955, trên cơ sở Phòng Công binh. Cục trưởng Trần Đình Xu, Chính ủy Trần Thế Môn, Tham mưu trưởng Phạm Hoàng, Tham mưu trưởng Nguyễn Văn Nhạn.

BỘ TĨNH CÔNG BÌNH: Được tổ chức theo quyết định số 102 / BQP ngày 28 tháng 6 năm 1965 của Bộ Quốc phòng, trên cơ sở Cục Công binh. Tư lệnh - Phạm Hoàng, Chính ủy - Chu Thanh Hương.

SĨ QUAN CÔNG BÌNH:Tiền thân là Đội Huấn luyện Bộ Công binh toàn quân, được thành lập theo quyết định 1507 / QĐ ngày 16 tháng 4 năm 1955. Ngày 26 tháng 12 năm 1955 Bộ Tổng Tham mưu có quyết định số 459 phát triển thành Trường Công binh . Hiệu trưởng: Nguyễn Đình Năm, Chính ủy: Phạm Ngọc Lê. Ngày 26 tháng 12 cùng năm khai giảng lần đầu tiên bổ sung khóa học, được lấy ra từ trường học. Tháng 1 năm 1956 Bộ QP- TTL lại có quyết định số 039 Sáp nhập vào Trường Sĩ quan Lục quân, thành Phân hiệu Công binh. Ngày 30 tháng 3 năm 1959, quyết định số 396 / BM6 tách ra thành Trường Sĩ quan Công binh. Ngày 25 tháng 7 năm 1960, lại có quyết định số 142 / BM-NT Sáp nhập vào Trường Sĩ quan Lục quân thành Khoa Công binh. Ngày 27 tháng 4 năm 1964 Khoa Công binh tách khỏi Trường Lục quân (Quyết định số 49 / QĐ-QP) thành Trường Sĩ quan Công binh, hiện tại cho tới nay.

Chỉnh sửa trung đoàn Công binh 151 thành các Đoàn:

ĐOÀN CÔNG TRÌNH 106 (219 sau này). Quyết định số 002 / NĐ- A của Bộ QP-TTL ngày 17 tháng 2 năm 1955. Tháng 3 năm 1958 được chỉnh sửa thành Trung đoàn công ty 219 (Lũng Lô). Từ tháng 5 năm 1974 được chỉnh sửa thành Lữ đoàn Công binh công trình 219 thuộc Quân đoàn 2. Từ năm 1991 điều chỉnh thành Trung đoàn 219 thuộc Quân đoàn 2.

ĐOÀN VƯỢT TRỘI 555 (sau này là 249).   Quyết định số 002 / NĐ - Ngày 17 tháng 2 năm 1955. Tháng 3 năm 1958 được chỉnh sửa thành Trung đoàn vượt sông 249 (Sông Lô). Từ tháng 11 năm 1975 thành Lữ đoàn sông 249.

ĐOÀN CÔNG TRÌNH 333 (sau này là 239 sông. Quyết định số 842 / QĐ ngày 16 tháng 7 năm 1955 của Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 3 năm 1958 được chỉnh sửa thành Trung đoàn vượt sông 239 (Sông Thao). Từ tháng 11 năm 1975 thành Lữ đoàn sông 239.

ĐOÀN CÔNG TRÌNH 444 (sau này là 229). Quyết định số 306 / NĐ - Ngày 14 tháng 6 năm 1955. Sau đó ngày 8 tháng 7 năm 1955 Bộ có quyết định số 147 / QĐ cho Đoàn 444 lấy lại hiệu là Đoàn 151. Tháng 3 năm 1958 được chỉnh sửa thành Trung đoàn   công ty 229 (Sông Đà). Từ năm 1981 thành Lữ đoàn công trình 229 theo quyết định số 808 / QP ngày 3 tháng 2 năm 1981 của Bộ Quốc phòng.

CÔNG TRÌNH TRUNG ĐOÀN XÂY DỰNG 259: Được thành lập theo quyết định số 160 / QĐ ngày 14 tháng 4 năm 1961 của Bộ trưởng Quốc phòng. Tháng 12 năm 1963, chỉnh sửa thành Đoàn Kiến trúc 59 theo quyết định số 67 / QP. Giữa năm 1965 chuyển thành Trung đoàn kiến ​​trúc 259. Tháng 7 năm 1976 Trung đoàn chuyển thuộc Đoàn 520 (tương đương sư đoàn). Tháng 6 năm 1979 trở về trực thuộc Bộ tư lệnh Công binh. The month 4 years 1990 is the reason of 109 / QP of the Bộ Quốc phòng.

LỮ ĐOÀN CÔNG TRÌNH 229: Xem Đoàn công trình 444 (Đoàn 151).

LỮ ĐOÀN CÔNG BÌNH VƯỢT TRỘI 239: Xem đoàn công trình 333.

LỮ ĐOÀN CB VƯỢT TRỘI SÔNG 249: Xem Đoàn Công binh vượt sông 555.

LỮ ĐOÀN CÔNG TRÌNH 279: Ban đầu là Trung đoàn Công binh cầu đường, được thành lập theo quyết định số 130 / QĐ-QP ngày 23 tháng 11 năm 1972. Năm 1989 chuyển thành đơn vị cấp Lữ đoàn. Trong quá trình làm nhiệm vụ đã chuyển thành đường yêu cầu đơn vị, rút ​​gọn đơn vị, khung đơn vị .., hiện nay là công trình đơn vị.

TRUNG ĐOÀN CÔNG BÌNH 279 (RẠNG ĐÔNG): Được thành lập theo quyết định số 18 / QP ngày 18 tháng 3 năm 1965, trực thuộc Cục Công binh. Đến tháng 9 năm 1965 chuyển thuộc Bộ tư nhanh 559. Thời gian sau (1966 - 1967) giải thể Trung đoàn, các tiểu đoàn đưa ra trực tiếp thuộc các binh chủng thuộc 559.

TRUNG ĐOÀN CÔNG TY KIẾN TRÚC 289: Được thành lập cùng một ngày với Trung đoàn Công binh 299 để làm công việc Z3 (chưa rõ số QĐ, có thể cùng một QĐ với Trung đoàn 299). Đến năm 1983 chuyển thành Lữ đoàn Công binh 289 theo quyết định số 1727 / QĐ-TM. Có thời gian chuyển thành đường hầm Lữ hành. Theatre to the QUYẾT ĐỊNH SỐ 32 / QĐ-QP ngày 4 tháng 3 năm 1989 của Bộ Quốc phòng.

KỸ THUẬT CÔNG TY: Được thành lập theo quyết định số 245 / HL ngày 17 tháng 12 năm 1963 của Cục Công binh. Sau này còn được gọi là Đoàn 1506. Năm 1999 có quyết định giải thể, công việc đào tạo nhân viên kỹ thuật giao cho Trường Sĩ quan Công binh. Ngày 28 tháng 5 năm 2003 được tái lập thành lập (theo Quyết định số 63-2003 / QĐ-BQP

TRUNG ĐOÀN CÔNG TY 72: Ban đầu là Tiểu đoàn 72, được thành lập để làm nhiệm vụ bảo quản công trình Tháng 7 năm 1977 Bộ chấn chỉnh Tiểu đoàn 72 thành Đoàn 535, vừa làm nhiệm vụ sản xuất kinh tế, vừa làm nhiệm vụ quản lý bảo mật. Đến tháng 3 năm 1987, đại bộ phận Đoàn 535 nhập vào Lữ đoàn 279, trừ Tiểu đoàn 72 vẫn làm nhiệm vụ bảo quản công việc như trước kia, coi như không có Đoàn 535. Tháng 9 năm 1988 Bộ có quyết định 249 / QĐ-QP chấn chỉnh Tiểu đoàn 72 thành Đoàn 72 (tương đương Trung đoàn). Năm 2003 được điều chỉnh thành Lữ đoàn 72?

TRUNG ĐOÀN CÔNG TY 10: Được thành lập   ngày 30 tháng 10 năm 1965. Ngày 13 tháng 11 năm 1965 Bộ Tổng Tham mưu quyết định điều hành trực thuộc Bộ Tư lệnh 559.

TRUNG ĐOÀN CÔNG BÌNH 7 (Quân Đoàn 3): Được thành lập theo quyết định số 203 / QĐ-QP ngày 12 tháng 11 năm 1965 của Bộ Quốc phòng, lễ thành lập Trung đoàn ngày 10 tháng 12 năm 1965, lúc bắt đầu được gọi là Trường 7, làm đường ở Lào. Tháng 10 năm 1967 Bộ Tổng Tham mưu có quyết định số 59 / TH-QĐ sửa đổi thành Trung đoàn Công binh 7. Tháng 9 năm 1975 theo quyết định số 670 / QĐ của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Trung đoàn chuyển thành Lữ đoàn Công binh 7 trực thuộc Quân đoàn.

TRUNG ĐOÀN CÔNG TY 217: Được thành lập theo quyết định số 203 / QĐ-QP ngày 12 tháng 11 năm 1965 của Bộ Quốc phòng cùng với Trung đoàn 7, lễ ra mắt ngày 13 tháng 12 năm 1965, lúc đầu được gọi là trường công 217, làm đường ở Lào. Tháng 3 năm 1971, theo mệnh lệnh số 63 / TM của Bộ Tổng Tham mưu, công trường 217 tách ra thành Trung đoàn Công binh 217 chuyển thuộc cho Bộ Tư lệnh 559 và công trường 216 tiếp tục làm nhiệm vụ ở Lào.

TRUNG ĐOÀN CÔNG BÌNH 216: Xem Trung đoàn Công binh 217. Đến tháng 1 năm 1975, Bộ có quyết định số 13 / QĐ-QP Rút công trường 216 về nước, chỉnh sửa thành Trung đoàn Công binh cầu đường 216, trực thuộc Bộ Tư lệnh Công binh. Năm 1976 Trung đoàn 216 đổi hiệu thành Trung đoàn Công binh 298, khi tổ chức Sư đoàn Công binh 530 làm sân bay Cánh Đồng Chum (Lào), Trung đoàn 298 là một trong số các đơn vị trực thuộc Sư đoàn. Tháng 6 năm 1984 được chỉnh sửa thành Lữ đoàn, tháng 1 năm 1985 chuyển thuộc Quân khu 2. Tháng 4 năm 1987 có thể giải quyết theo số 411 / QP ngày 3 tháng 4 của Bộ Quốc phòng. (Cùng với Trung đoàn 537, lữ đoàn 530, e284, e 533, e 534 (t, 143)

ĐOÀN CÔNG TY 520 (Tương đương sư đoàn): Được thành lập ngày 31 tháng 7 năm 1976, lúc bắt đầu có các Trung đoàn 229, 279, 289 và 259. Tháng 7 năm 1977 hai Trung đoàn 229 và 279 rút về trực thuộc Bộ Tư lệnh Công binh, thay vào đó thành lập mới 2 Trung đoàn 521 và 522. Tháng 6 năm 1979 Trung đoàn 259 về trực thuộc Bộ Tư lệnh, chỉ còn 3 Trung đoàn. Tháng 12 năm 1984, chỉnh sửa thành Lữ đoàn, chuyển giao cho Quân khu 2. Giải thể trong thời gian từ 1988-1990.

  ĐOÀN CÔNG TY 530 (Tương đương sư đoàn): Được thành lập ngày 15 tháng 12 năm 1976, có các Trung đoàn 298, 533 và 534. Sau khi Bộ 533 và 534 cho Quân khu 1, được bổ sung các Trung đoàn 49 , 284, 453 của Quân khu 4. Cuối năm 1984 được chỉnh sửa thành Lữ đoàn 530, chuyển giao cho Quân khu 1. Giải thể theo quyết định của Bộ số 414 / QP ngày 3 tháng 4 năm 1987.

  TRUNG ĐOÀN CÔNG TY 521: Được thành lập ngày 14 tháng 4 năm 1977, trực thuộc Đoàn 520. Tháng 5 năm 1983 tách khỏi Đoàn 520 về trực thuộc Bộ Tư lệnh Công binh. The year 1988 to be used by QUYẾT ĐỊNH SỐ 159 / QP ngày 24 tháng 8.

  TRUNG ĐOÀN CÔNG TY 522: Được thành lập ngày 14 tháng 4 năm 1977, trực thuộc Đoàn 520. Tháng 6 năm 1978 được điều chỉnh về Quân khu 1. Giải thể trong khoảng 1987-1989.

   TRUNG ĐOÀN CÔNG TY 523: Được thành lập ngày 11 tháng 9 năm 1978 theo quyết định của Bộ. Ngày 27 tháng 10 năm 1978 chính thức ra mắt, trực thuộc Đoàn 520. Sau đó tăng cường cho Quân khu 2 (tháng 2 năm 1983), giải thể khoảng từ 1987-1989.

  CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN TRUNG ƯƠNG 533 VÀ 534: Được thành lập năm 1976 thuộc Đoàn 530. Tháng 3 năm 1981 Bộ phân phối thuộc Quân đoàn 14 và Quân đoàn 26 Quân khu 1, giải thể trong thời gian từ 1985 - 1987.

  HẠ SĨ QUAN CÔNG BÌNH:  Được thành lập theo quyết định của Bộ Quốc phòng ngày 6 tháng 11 năm 1978. Trước đó, ngày 26 tháng 8 đã thành lập theo quyết định của Bộ Tư lệnh Công binh. Cannot to the rules of 91 ngày 12 tháng 2 năm 1987 của Bộ Tư lệnh Công binh.

   TRUNG ĐOÀN CÔNG TY 537: Được thành lập theo quyết định của Bộ Tổng Tham mưu ngày 24 tháng 12 năm 1979, trực thuộc Bộ Tư lệnh Công binh, tăng cường cho Quân đoàn 29 Quân khu 2 (tháng 5 năm 1982), giải thể ngày 3 tháng 4 năm 1987 theo quyết định số 411 / QP của Bộ Quốc phòng.

  TRUNG ĐOÀN CÔNG TY 284: Nguyên là Trung đoàn bộ binh của Quân khu 4, được điều tiết về Bình chủng (thuộc Đoàn 530) tháng 7 năm 1981 QĐ số 289 / QĐ - TM), chuyển thuộc Đặc khu Quảng Ninh từ tháng 3 năm Năm 1982, giải thể ngày 3 tháng 4 năm 1987 theo quyết định số 413 / QP, khi đó thuộc đặc khu Quảng Ninh.

TRUNG ĐOÀN CÔNG BÌNH VƯỢT TRỘI 269 : Được thành lập theo quyết định số 83 / QĐ-QP ngày 18 tháng 5 năm 1972 của Bộ Quốc phòng. Sau đó, hình ảnh sẽ tăng cường cho các chiến trường theo từng phân đội, lực lượng còn lại bàn giao về 239 và 249. Ngày 26 tháng 10 năm 1973 thể hiện theo quyết định số 164 / QĐ-QP của Bộ Quốc phòng.

CÔNG TRÌNH TRUNG ĐOÀN CÔNG BÌNH 269: Được thành lập theo quyết định số 64 / QĐ-QP ngày 7 tháng 5 năm 1974, trực thuộc Bộ Tư lệnh Công binh. Sau đó chuyển thuộc đoàn công binh 15 vào chiến trường Tây Nam, có giai đoạn chuyển thành đơn vị yêu cầu. Tháng 11 năm 1980 trở lại trực thuộc Bộ Tư lệnh. The year 1988 to be used by QUYẾT ĐỊNH SỐ 288 / QĐ ngày 10 tháng 11.

LỮ CÔNG TY CỔ PHẦN ĐƯỜNG 38: Nguyên là Trung đoàn pháo binh 38, thành lập ngày 28 tháng 11 năm 1955, trực thuộc Sư đoàn 308. Trong kháng chiến chống Mỹ tham gia chiến đấu ở chiến trường. Sau kháng chiến chống Mỹ chuyển thành đơn vị đường thuộc Binh đoàn 12. Ngày 24 tháng 12 năm 1979 Bộ điều khiển trực thuộc Bộ Tư lệnh Công binh. The year 1988 to the reason number 287 / QĐ ngày 10 tháng 11 của Bộ Quốc phòng.

TIỂU ĐOÀN XE LỘI Nước 69: Được thành lập theo quyết định số 06 / TM6 ngày 17 tháng 2 năm 1961 của Bộ Tổng Tham mưu. Đến tháng 3 năm 1971 chuyển thuộc về Lữ đoàn 144 theo quyết định số 51 / TM-QĐ của Bộ Tổng Tham mưu.

TIỂU ĐOÀN VẬT SỐ 93: Nguyên là Đội phá bom 93, được tổ chức theo quyết định số 637 / TM2 ngày 4 tháng 10 năm 1967, ngày 15 tháng 10 cùng năm chính thức ra đời. Tháng 4 năm 1975 chuyển thành Tiểu đoàn vật cản 93.

TIỂU ĐOÀN NGỤC TRANG 94: Được thành lập theo quyết định số 311 / QĐ7 ngày 2 tháng 12 năm 1983 của Bộ Tổng Tham mưu, trực thuộc Bộ Tư lệnh Công binh, nhưng do Lữ đoàn Công binh 38 quản lý, giải thể tháng 8 năm 1988 theo quyết định số 701 ngày 30 tháng 8 năm 1988 của Bộ Tư lệnh Công binh.

TIỂU ĐOÀN SỞ CHỈ HUY 95: Nguyên là Tiểu đoàn 2 thuộc Lữ đoàn Công binh 279, được tổ chức thành Tiểu đoàn xây dựng chỉ huy 95 theo quyết định của Bộ Tổng Tham mưu tháng 7 năm 1982, giải thể cùng với Tiểu đoàn trang 94 (30 tháng 8 năm 1988).

TRUNG ĐOÀN CÔNG TY 539: Được thành lập theo quyết định ngày 24 tháng 12 năm 1979 của Bộ Tổng Tham mưu, trực thuộc Đặc khu Quảng Ninh. Giải thích vào năm 1987, khi Đặc khu Quảng Ninh Sáp nhập với Quân khu 3.

TRUNG ĐOÀN CÔNG TY 98: Nguyên là Trung đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn 316, chuyển thành Trung đoàn yêu cầu đường theo quyết định của Bộ tháng 6 năm 1961. Tháng 10 năm 1961 bàn giao sang trực thuộc Cục Công binh. Năm 1964 chuyển thuộc Bộ tư lệnh 559. Sau này thành công ty xây dựng cầu đường 98 Tổng công ty xây dựng Trường Sơn.

SƯ ĐOÀN CÔNG TY 15: Thành lập theo quyết định số 63 / QĐ-QP ngày 7 tháng 1 năm 1974 (tức công ty trường 15C), gồm các tập đoàn Trung Quốc 229, 279 và 269. Đầu năm 1975, rút ​​gọn lại vì 229 và 279 into field, only 269 and d4 / 229. Năm 1976 Trung đoàn 229 trở lại Sư đoàn 15 cho đến năm 1978.

TRUNG ĐOÀN CÔNG AN VƯỢT TRỘI 265: Thành lập tháng 4 năm 1975 theo quyết định số 65 / QĐ-QP Bộ Quốc phòng ngày 17 tháng 4 năm 1975. Tháng 11 cùng năm, lực lượng 265 được điều chỉnh bổ sung cho 2 Lữ đoàn 239 và 249 chỉ còn lại Trung đoàn bộ (quyết định 175 / QĐ-QP ngày 6 tháng 11 năm 1975) và sau đó chuyển thành Đoàn huấn luyện 265 (quyết định số 139 / TM2 ngày 6 tháng 2 năm 1976 .

TRUNG ĐOÀN CÔNG BÌNH 83 (Hải Quân): Nguyên là Trung đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn 335, chuyển thành Trung đoàn làm đường ngày 19 tháng 8 năm 1958, nhưng vẫn thuộc sư đoàn 335, được chỉnh sửa theo định nghĩa của Bộ tháng 6 năm 1961, bàn giao hát trực thuộc Cục Công binh tháng 10 năm 1961. Từ năm 1968 phân phối thuộc Bộ tư lệnh 559. Cuối năm 1970 phân phối thuộc Mặt trận Tây Nguyên, sau đó phân phối thuộc Khu 5. Năm 1976 chuyển thuộc BTL Hải quân.

TRUNG ĐOÀN CÔNG BÌNH 131 (Hải Quân): Được thành lập theo quyết định số 80 / QĐ-QP ngày 6 tháng 11 năm 1975 của Bộ Quốc phòng, trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải Quân trên cơ sở các đội Công binh Hải Quân (công trình) has from the years kháng chiến chống đế quốc Mỹ.

TRUNG ĐOÀN CÔNG BÌNH 28 (Quân chủng PK-KQ): Được thành lập theo quyết định số 224 / QĐ-QP ngày 23 tháng 12 năm 1965 của Bộ Quốc phòng, bao gồm 3 Tiểu đoàn, trong đó 1 Tiểu đoàn rút từ Trung đoàn 229, 1 Tiểu đoàn rút từ Trung đoàn 219 và 1 Tiểu đoàn mới thành lập (tân binh). Bộ Tư lệnh Công binh xây dựng Trung đoàn này và bàn giao cho Bộ Tư lệnh Phòng Không - Không Quân tháng 1 năm 1966. Giải thể theo quyết định số 68 / QP ngày 28 tháng 6 năm 1968 của Bộ Quốc phòng, các phân đội đưa về các sân bay trực thuộc. Đến ngày 20 tháng 6 năm 1972 khôi phục lại Trung đoàn 28 theo quyết định số 102 của Bộ Quốc phòng. Giữa năm 1977 Quân chủng Phòng không - Không quân tách biệt thành 2 Quân chủng Phòng không và Không quân, xây dựng thêm Trung đoàn Công binh 220 trực thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không. Năm 1982, Trung đoàn Công binh 28 của Không quân giải trí, Các tiểu đoàn chuyển thuộc Cục Hậu cần quân đội và các quân đoàn Không quân. Đến năm 1985 khôi phục lại Trung đoàn 28. Các đơn vị này tồn tại đến năm 1999, khi 2 Quân chủng nhập lại thành quân Phòng không - Không quân. Trung đoàn 220 và Trung đoàn 28 được chỉnh sửa thành Lữ đoàn Công binh 28.

TRUNG ĐOÀN CÔNG TY 299 (Quân đoàn 1): Được thành lập ngày 14 tháng 7 năm 1965 (theo quyết định số 116 / QĐ-QP), lúc đầu là Trung đoàn Công binh kiến ​​trúc, tham gia xây dựng công trình Z3. Từ tháng 11 năm 1971 chuyển thành trung đoàn công ty. Ngày 26 tháng 10 năm 1973 theo quyết định số 146 / QĐ-QP của Bộ Quốc gia, Bộ Tư lệnh Công binh phòng chỉnh sửa Trung đoàn 299 thành Lữ đoàn Công binh chuyển trực thuộc Quân đoàn 1. Tháng 9 năm 1991, điều chỉnh thành Trung đoàn theo thị chỉ của Bộ.

TRUNG ĐOÀN CÔNG BÌNH 219 (Quân đoàn 2): Xem Đoàn công trình 106.

TRUNG ĐOÀN CÔNG BÌNH 550 (Quân đoàn 4): Nguyên là Lữ đoàn Công binh 25 (Quân đoàn 4), được thành lập ngày 20 tháng 7 năm 1974. Ngày 1 tháng 2 năm 1982, theo quyết định của Bộ Quốc phòng, Lữ đoàn 25 chuyển đổi hiệu, đồng thời điều chỉnh thành Trung đoàn Công binh 550.

LỮ CÔNG BÌNH 575 (Quân khu 1): Nguyên là Trung đoàn Công binh 575 thuộc sư đoàn 470 Bộ Tư lệnh 559, được thành lập ngày 17 tháng 1 năm 1975 theo quyết định số 49 / QĐ-TM của Bộ Tổng Tham mưu . Tháng 3 năm 1979 Trung đoàn chuyển thuộc Sư đoàn Công binh 473 (Binh đoàn 12). Tháng 4 năm 1980 Trung đoàn chuyển thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 1 theo quyết định của Bộ Quốc phòng tháng 2 năm 1980. Ngày 18 tháng 8 năm 1980 Bộ Quốc phòng có quyết định số 521 / QĐ-QP chuyển Trung đoàn lên cấp Lữ đoàn.

LỮ CÔNG BÌNH 543 (Quân khu 2): Nguyên là Trung đoàn bộ 195 Sư đoàn 411 chuyển sang, cùng với một bộ phận của Tiểu đoàn Công binh 25 (được thành lập từ năm 1958, thuộc Quân khu Tây Bắc trước đây ), đổi hiệu hiệu thành Trung đoàn Công binh 543 trực thuộc Quân khu 2 theo quyết định của Bộ Quốc phòng. Ngày 2 tháng 11 năm đó Bộ Quốc phòng lại có sự định đoạt và chỉnh sửa Trung đoàn thành Lữ đoàn.

LỮ CÔNG BÌNH 513 (Quân khu 3): Tiền thân là Tiểu đoàn Công binh 25 Quân khu Tả Ngạn, được thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1958. Ngày 15 tháng 7 năm 1976 Trung đoàn Công binh 513 được thành lập theo quyết định định của Bộ Quốc phòng, trong đó có các phân đội Công binh nguyên là của hai Quân khu Tả Ngạn và Hữu Ngạn trước đây. Tháng 5 năm 1989 Trung đoàn 513 được chỉnh sửa thành Lữ đoàn Công binh 513 trực thuộc Quân khu 3 theo quyết định của Bộ.

LỢI CÔNG BÌNH 414 (Quân khu 4): Nguyên là Trung đoàn Công binh 14, sau đổi thành 414 thuộc Quân khu Trị Thiên, được thành lập ngày 15 tháng 5 năm 1972, trong đó lực lượng cốt lõi là Tiểu đoàn 1 ( Trung đoàn Công binh 7, thành lập từ năm 1965). Năm 1976, khi Quân khu Trị Thiên sáp nhập vào Quân khu 4, Trung đoàn 414 chuyển thuộc Quân khu 4 vào giữa năm, có thêm một số Tiểu đoàn, Đại đội vốn thuộc Quân khu trước đây. Ngày 31 tháng 5 năm 1991 Bộ Quốc phòng quyết định chuyển Trung đoàn 414 thành Lữ đoàn.

LỮ CÔNG BÌNH 270 (Quân khu 5): Nguyên là Trung đoàn Công binh cầu đường 270, thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1971 theo quyết định số 11 / QĐ của Bộ Tư lệnh Quân khu 5, trực thuộc Cục Hậu cần , tháng 4 năm 1974 chuyển thuộc Bộ Tham mưu Quân khu. Ngày 12 tháng 12 năm 1975 Bộ tư lệnh Quân khu quyết định chuyển Trung đoàn thành đơn vị Công binh, đồng thời trở lại trực thuộc Cục Hậu cần kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1976. Từ năm 1977 Trung đoàn trực tiếp trở lại thuộc Bộ Tham mưu Quân khu. Ngày 31 tháng 5 năm 1991 theo quyết định số 212 / QĐ-QP của Bộ Quốc phòng, Trung đoàn chuyển thành Lữ đoàn.

TRUNG ĐOÀN CÔNG TY 280 (Quân khu 5): Được thành lập ngày 29 tháng 3 năm 1979 theo quyết định của Bộ Quốc phòng. Năm 1989, sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở chiến trường K rút về nước, rút ​​gọn lại thành Đoàn 280 làm nhiệm vụ xây dựng quốc phòng. Đến năm 1993 Bộ khôi phục lại Trung đoàn.

LỮ CÔNG BÌNH 25 (Quân khu 7): Nguyên là Trung đoàn Công binh 25, được định hình thành đầu năm 1976 theo quyết định của Bộ Quốc phòng, cốt lõi là các đơn vị Công binh trực thuộc đây trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ, như các tiểu đoàn 739, 741, 278… Tháng 8 năm 1991 Trung đoàn chỉnh sửa thành Lữ đoàn theo quyết định của Bộ.

LỮ CÔNG BÌNH 25 (Quân khu 9): Nguyên là Trung đoàn Công binh 25, được tổ chức tháng 10 năm 1976. Đầu năm 1991, Bộ Tư lệnh Quân khu điều chỉnh Trung đoàn thành Lữ đoàn.

TRUNG ĐOÀN CÔNG BÌNH 544 (Quân khu Thủ Đô): Thành lập ngày 5 tháng 3 năm 1979. Từ tháng 8 năm 1987 chỉ còn là Tiểu đoàn Công binh 544. Tháng 8 năm 1991 Tiểu đoàn cũng giải thể, đến tháng 3 năm 1993 được khôi phục lại, tồn tại cho đến nay.

CÔNG TY 49: Tiền thân là Đại đội bảo quản, sửa chữa Công binh C49, được thành lập đầu năm 1955. Ngày 29 tháng 8 năm 1959 Đại đội được chỉnh sửa thành Xưởng 49 (X49), đến năm 1966 phát triển thành Xí nghiệp nghiệp phòng. Ngày 12 tháng 5 năm 1999, Bộ Quốc phòng có quyết định số 624/1999 / QĐ-BQP thành lập Công ty 49, trong đó có xí nghiệp X49 và xí nghiệp X143.

CÔNG TY 756: Nguyên là căn cứ sửa chữa xe của Công ty trước đây, chúng tôi tiếp tục quản lý năm 1975, làm Tổng cục Kỹ thuật quản lý. Ngày 8 tháng 6 năm 1987, Z756 được chuyển giao cho Bộ Tư lệnh Công binh theo quyết định số 830 / QĐ-QP của BQP. Năm 1999 chuyển thành Công ty 756



Thứ Tư, 3 tháng 3, 2021

ĐẠI HÔI CHI HỘI PHỤ NỮ16 PHƯỜNG LÁNG HẠ

Ngày 3/3/2021 diễn ra Đại hội Phụ nữ Chi hội 16. Với sự tham gia hơn 60 đại biểu. Đại hội đã diễn ra thành công tốt đẹp đúng theo kế hoạch đề ra.