Sơ lược lịch sử làng Thụy Trà, xã Nam
Trung, Huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương
Làng
Thụy Trà có lịch sử phát triển khá lâu đời,
căn cứ vào Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có
ghi lại công lao của Phạm Lệnh Công thì làng Thụy
Trà có từ thời Ngô Vương tức là có từ trước
năm 938. Làng cổ xưa ở xứ đường Hà (đường
sông) gần nghè Đụn đến khoảng thế
kỷ thứ XVI làng chuyển về vị trí bây giờ như
vậy cho đến nay làng Thụy Trà đã hình thành được
1075 năm.
7777777777777777
Thụy
Trà là 1 trong 3 làng của xã Nam Trung, là làng có truyền
thống cách mạng, truyền thống hiếu học,
mảnh đất màu mỡ giàu tiềm năng phát
triển kinh tế đã tạo điều kiện cho nhân
dân nơi đây thâm canh sản xuất.
Thụy
Trà có diện tích tự nhiên là 55,3ha, có 248 hộ, 827 nhân
khẩu chi bộ Đảng có 42 đảng viên, có 9 dòng
họ gồm họ Nguyễn Văn, họ Nguyễn Phúc,
họ Trần Văn, họ Vũ Đình, họ Quách,
họ Phạm, họ Linh, người dân nơi đây qua
bao thế hệ đều sống đoàn kết, chân
tình, thân ái và phát triển.
Làng đã
trải qua nhiều thời kỳ với nhiều tên
gọi khác nhau như Trà Hương, Thụy Hà, Thụy Trà
Thượng, Thuỷ Trà. Từ năm 1945 đến nay
gọi là Thụy Trà với lịch sử phát triển lâu đời,
cùng với việc phát triển đất đai, phát
triển kinh tế, người dân nơi đây còn xây
dựng nhiều công trình tôn giáo, tín ngưỡng, gắn
liền với những sự kiện lịch sử của
dân tộc để phục vụ cho nhu cầu sinh
hoạt, văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân
trong làng, đồng thời cùng để giáo dục
truyền thống lịch sử văn hoá và biết ơn
đến các bậc tiền bối những người đã
có công với nước với dân. Một trong những công trình đó được
lưu lại đến nay là Đình Thụy Trà – ngôi đình
được xây dựng để thờ 2 vị thành hoàng
làng là Phạm Chiêm (Phạm Lệnh
Công) và Phạm Hoà (Phạm
Hoà Công) .
Theo lịch sử Thần tích,
thần sắc hiện được giữ tại viện
thông tin khoa học – xã hội, đều Bạch Mã và các bản
sắc phong được lưu giữ tại Đình Làng,
trải qua đã nhiều thế hệ người dân Thụy
Trà vẫn lưu truyền công đức của 2 vị Thần
Hoàng Làng trong đó có Phạm Chiêm (tức là Phạm Lệnh Công), ông sinh ngày 16/8/năm
Kỷ mùi (899) và mất ngày 05/3/năm Nhâm tuất (962), con ông
Phạm Thì(tức là Phạm Trí
Dũng), Phạm Thì giữ chức Hồng Châu Tướng
Quân. Ngô Quyền làm tướng và đóng quân ở
Làng Trà Hương và chọn nơi đây là nơi luyện
tập cho binh lính. Ngô quyền trông thấy Phạm Lệnh
Công là người có tài, có sức khoẻ, văn học
tinh thông nhận làm anh em kết nghĩa, khi Ngô Quyền lên
ngôi khởi binh có cử Phạm Lệnh Công ra dẹp Thành Đại
La, dẹp Kiền Công Tiễn và chặn đánh quân Nam Hán làm
lên chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm
938. Ngô Quyền xưng vương phong quan võ cho Phạm Lệnh
Công và cấp đất cho ông ở Trà Hương. Ngô Quyền
thấy Phạm Lệnh Công là người tin cậy nhất
đã viết 1 tờ di chỉ để lại cho con dặn
dò. Trong đó có đề cập đến
những diễn biến khó lường thì trông cậy vào
Phạm Lệnh Công để duy trì Triều đại nhà
Ngô.
Sau khi Ngô Quyền
mất Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô và hống hách,
Phạm Lệnh Công từ quan về quê. Sau Ngô Xương
Ngập chạy về nhà Phạm Lệnh Công nhờ che chở.
Phạm Lệnh Công đã đưa Ngô Xương
Ngập vào rừng núi Hun Sơn Chí Linh đào hầm ẩn
láu. Ba lần Dương tam Kha sai Dương
Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc về đuổi bắt
nhưng đều không làm gì được. Căn cứ
vào đây chứng tỏ Phạm Lệnh Công là người
có tài mưu lược. Ngô Xương Văn dành lại được
ngôi vua, cho người về làng Trà Hương đón anh
trai là Ngô Xương Ngập về cùng cai
quản đất nước. Ngô Xương
Ngập xưng là Thiên Sách Vương đặt tên cho làng
Thụy Hà. Phạm Lệnh Công có công lập
lên nhà Hậu Ngô Vương.
Sau khi Phạm Lệnh
Công qua đời, để tỏ lòng thành kính nhà Vua cho lập
đền thờ ông và các đời vua sau đề phong
sắc cho ông.
Hàng năm theo phong tục cổ
truyền để giáo dục truyền thống, niềm
tự hào cho các thế hệ, người dân trong làng cứ
vào ngày 11, 12 tháng giêng nhân dân trong làng lại tưng bừng
tổ chức Lễ hội, để tỏ lòng thành kính
tri ân các lễ vật được nhân dân dâng lên Đức
Thánh là Bánh Chay, Bánh Trưng, Bánh Ít, bắng dày. Trong Lễ hộ
có tổ chức rước sắc, tế lễ, các trò chơi
dân gian như cờ tướng, gà chọi, cầu thuôn….. Tín ngưỡng dân giao khác mang đậm tính chất
đồng bắc bắc bộ như tục khao lão, tục
cúng cơm mới, xôi mới đầu mùa.
Sự
phát triển kinh tế
Trong công cuộc đổi mới,
xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng
nông thôn mới, những năm qua nhân dân Thụy Trà đã có
nhiều cố gắng, lỗ lực đoàn kết nhất
trí cùng nhau phấn đấu đi lên, quyết tâm thực
hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ kinh tế
- xã hội đã đề ra. Trong đó về phát triển
kinh tế cùng với việc duy trì thâm canh cây lúa nước,
cây hành vụ đông với việc áp dụng những tiến
bộ khoa học kỹ thuật để cho năng suất
thu nhập cao. Nhiều hộ gia đình
còn tích cực mở rộng ngành nghề sấy nông sản,
kinh doanh dịch vụ, có 05 công ty doanh nghiệp được
thành lập tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người
dân, tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm
trước, bình quân thu nhập đầu người đến
nay là 17 triệu đồng/người/năm. Cơ sở
hạ tầng như nhà văn hoá, đường giao thông,
hệ thống nước sạch, hệ thống điện
chiếu sáng…. được người dân tự nguyện
đóng góp kinh phí và con em Thụy Trà sinh sống học tập
công tác xa quê hương ủng hộ để xây dựng.
Về lĩnh vực văn hoá thôn đã được công
nhận và giữ vững danh hiệu Làng văn hoá từ năm
2006 đến nay, hàng năm có trên 90% số hộ gia đình
được công nhận là gia đình văn hoá, phong trào
văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao được
duy trì và đẩy mạnh, thực hiện nếp sống
văn hoá trong việc cưới, việc tang và lễ hội
ngày càng có hiệu quả.
Di tích lịch
sử Đình Thụy Trà
Theo các bản sắc
phong thì Đình Thụy Trà được xây dựng vào cuối
thế kỷ XVII năm chính hoà tứ liên (1684) trên diện
tích khoảng 8 sào bắc bộ. Đình quay hướng Nam, trước
mặt Đình có cừ nước chảy qua, xa là đống
con cá nằm giữa bãi. Để làm đình
làng cần khoảng 200m2 gỗ trong đó toàn là gỗ
Lim và gỗ vàng tâm. Cột đình có đường kính
65cm đến 70cm. Đình có 05 gian chiều rộng mỗi
gian 4m, chiều dài 10m, phần chuôi về rộng 4m, dài 6m.
Xung quanh bên trái có cây quéo rất to phải 4 đến 5 người
ôm mới choáng hết, bên phải có cây đa phải 3 người
ôm mới choáng hết, phía tây Đình có bia tiên hiền, bên
trong có bia làm đình. Bia tiên hiền dựng năm Tự Đức
thập nhất niên (năm thứ 17 đời Vua Tự Đức
1864) trên đó ghi những người đỗ đạt
trong các khoa thi giai đoạn đó.
Đến năm 1958-1962 do yêu
cầu Đình bị Hạ giải để xây dựng cơ
sở hạ tầng như trường học, trạm xá,
cầu cống….
Sau Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ 6 (1986) đất nước đổi
mới, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương
5 khoá 8 về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhu cầu sinh hoạt tự do
tín ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng của
người dân ngày càng cao cũng là để khôi phục và
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp
của ông cha. Người dân trong Làng đã tích cực tuyên
truyền vận động tôn tạo, khôi phục lại
di tích lần thứ nhất là vào năm 1990 động thổ
ngày 01/4 năm Canh ngọ và khánh thành ngày 01/6/năm Canh ngọ
1990, gồm 02 gian hậu cung. Lần thứ hai vào năm
1996 khởi công ngày 01/11 và khánh thành ngày 01 tháng chạp năm
Bính Tý, thêm 3 gian đại bái. Tổng số
tiền vận động quyên góp người dân trong làng
qua 2 lần khôi phục tôn tạo di tích lên tới trên 100
triệu đồng và nhiều hiện vật quý. Những
cá nhân tiêu biểu trong việc tham gia tu bổ tôn tạo di
tích 2 lần là các cụ Phạm Thị Đĩa, Nguyễn
Văn Ngọc, Nguyễn Thị Sớm, Trần Văn Chén,
Nguyễn Văn Đằng, Nguyễn Đại Đãm,
Nguyễn Thị Thỏ, Trần Thị Cửa, Nguyễn
Thị Họ, Trần Văn Lê, Vũ Đình Huấn, Trần
Văn Mưu, Trần Văn Tam, Nguyễn Văn Tích, Trần
Văn Tái, Trần Văn Nghĩa, Vũ Đình Tường,
Nguyễn Văn Lừng, Quách Hồng Thanh, Nguyễn Văn
Tu, Trần Văn Quang, Nguyễn Văn Bích và nhiều cá nhân
tiêu biểu khác.
Hiện nay Đình Thụy Trà có
kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm 03 gian đại
bái và 02 gian hậu cung, trong Đình còn lưu giữ một
số đồ vật cổ gồm 01 bộ tam sự bằng
đồng, 03 nhang sứ, 02 bát hương bằng đá và
gốm sứ, 02 sắc phong, 01 hòm đựng sắc phong,
01 ngai thờ, 01 giá kiếm (01 kiếm gỗ cổ), 01 bảng
đọc chúc, 01 bàn đọc vuông thời Nguyễn. Các cổ vật này không chỉ có giá trị về
mặt nghệ thuật, văn bản, niên đại, lịch
sử mà còn có giá trị về khoa học và văn hoá tinh
thần.
Bên cạnh
những niềm tự hào về những giá trị
lịch sử, văn hoá của di tích, phát huy truyền
thống cách mạng của quê hương, truyền
thống hiếu học, trong các cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, nhân dân Thụy Trà đã sớm giác
ngộ cách mạng, sau cách mạng tháng tám năm 1945 thành
công chi bộ Đảng được thành lập
tiếp đó là chính quyền nhân dân được hình
thành, thôn Thụy Trà là cơ sở cách mạng, nơi che
dấu nuôi dưỡng chở che nhiều cán bộ,
bộ đội dân quân du kích hoạt động cách
mạng.
Tổng
kết 2 cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc
Trong làng có 18 liệt sĩ đã
anh dũng hy sinh trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc, 02 bà mẹ
Việt Nam anh hùng, 23 đồng chí là thương, bệnh
binh và có gần 100 người được Đảng
và nhà nước tặng thưởng huân, huy chương
kháng chiến các loại.
Công
tác khuyến học
Các gia đình, dòng họ quan tâm,
không có học sinh bỏ học đặc biệt thôn có
truyền thống hiếu học, nhiều người có
học vị cao, có 4 tiến sỹ, 2 Phó Giáo sư, 18 bác sỹ,
kỹ sư, nhiều thạc sĩ và trên 100 người có
trình độ Đại học, nhiều con em Thụy Trà
đang tham gia công tác và giữ các cương vị trọng
trách cao trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quân sự,
Công an. Trong lĩnh vực an ninh trật tự, người
dân Thụy Trà luôn chấp hành đường lối chính sách
pháp luật của Đảng và Nhà nước, trong nhiều
năm liền không có trường hợp vi phạm pháp luật,
tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được
đảm bảo, liên tục được công nhận là
Làng an toàn.
Căn cứ vào những tiêu trí
xếp hạng và giá trị về mặt lịch sử của
di tích, Đình Thụy Trà đã được Chủ tịch
UBND tỉnh Hải Dương Quyết định công nhận
xếp hạng di tích lịch sử văn hoá, đây là niềm
tự hào của mỗi người dân Thụy Trà nói riêng
và người dân xã Nam Trung nói chung. Để tưởng
nhớ tới công lao to lớn của các bậc tiền bối
là 2 vị Thần Hoàng Làng là Phạm Chiêm và Phạm Hoà đã
có công với dân, với nước, ghi nhận những cố
gắng của người dân Thụy Trà ngày nay đã tích
cực thu bổ, tôn tạo, khôi phục lại di tích lịch
sử. Mặc dù các công trình trong di tích còn có kết cấu đơn
giản nhưng là tiền đề để người
dân nơi đây tiếp tục vận động để
tiếp tục tu bổ, cải tạo để công trình
ngang tầm với truyền thống lịch sử văn
hoá, thực sự là nơi giáo dục truyền thống lịch
sử văn hoá, truyền thống yêu nước cho các thế
hệ con cháu sau này tiếp tục phát huy giá trị lịch
sử văn hoá của di tích, góp phần “xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc” xây dựng quê hương
ngày càng giầu đẹp văn minh.