KHUYẾN HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN
Nhằm động
viên tinh thần học tập của các cháu trên địa bàn, Chi bộ, Tổ dân phố tổ chức tặng
thưởng cho các cháu học sinh xuất sắc trong các kỳ thi.
KHUYẾN HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN
Nhằm động
viên tinh thần học tập của các cháu trên địa bàn, Chi bộ, Tổ dân phố tổ chức tặng
thưởng cho các cháu học sinh xuất sắc trong các kỳ thi.
PHỤ NỮ CHI HỘI
16 LÁNG HẠ PHÁT CHÁO TỪ THIỆN
Phụ nữ chị hội
16 Láng Hạ phát cháo từ thiện cho các bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn.
Tình Đồng Tộc Họ Phạm là Câu lạc bộ (CLB) công khai, hội tụ bạn bè họ Phạm và họ khác có cảm tình với họ Phạm, tự nguyện tham gia nhằm kết nối tình đồng tộc, giao lưu, chia sẻ mọi cảm xúc lành mạnh, bổ ích, có văn hóa, động viên nhau trong cuộc sống…nhằm mục đích chính là kết nối và vun đắp tình đồng tộc, cùng chung tay đẩy mạnh các hoạt động việc họ ở các cấp, phát huy truyền thống họ Phạm Việt Nam.
Các thành
viên tham gia CLB theo nguyên tắc:
- Tự nguyện
gia nhập hoặc rời khỏi CLB;
- Tôn trọng
lẫn nhau;
- Không đưa
bài viết, hình ảnh về những vấn đề nhạy cảm, chuyện riêng tư tế nhị, gây phản cảm,
không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc ta.
- Bình luận,
trao đổi đúng mực có văn hoá;
- Tự chịu
trách nhiệm về bài viết, hình ảnh và bình luận của mình;
- Không đưa
thông tin quảng cáo cho mục đích cá nhân;
Mong các bạn
hưởng ứng, cùng xây dựng CLB Tình Đồng tộc Họ Phạm lành mạnh và bổ ích.
- Tập hợp, đoàn kết, động viên người cao tuổi tham gia sinh hoạt Hội người cao tuổi, góp phần thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, giáo dục thế hệ trẻ, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Làm nòng cốt
trong phong trào toàn dân chăm sóc, phụng dưỡng, phát huy vai trò người cao tuổi.
- Bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người cao tuổi.
- Nghiên cứu
nhu cầu, nguyện vọng của người cao tuổi để kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
LỄ MỪNG THỌ, MỪNG SONG HỶ CÁC CỤ TRONG ĐỊA BÀN
Chi hội Cựu chiến binh 16-Láng
Hạ có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát
triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Vai trò đó thể
hiện qua việc thực hiện các nhiệm vụ của Hội, đó là:
-
Tham gia phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh; kiến nghị
với cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương về xây dựng và tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật có liên quan đến cựu chiến binh, Hội Cựu chiến binh.
-
Tập hợp, đoàn kết, động viên cựu chiến binh rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo
đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ hiểu biết đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kiến thức về kinh tế, văn hoá, khoa học
- kỹ thuật, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân; tập hợp quân nhân đã hoàn thành
nghĩa vụ quân sự tiếp tục phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tham gia tổ
chức câu lạc bộ, ban liên lạc cựu quân nhân, các phong trào cách mạng ở cơ sở.
-
Tổ chức chăm lo, giúp đỡ cựu chiến binh nâng cao đời sống vật chất, tinh thần,
phát triển kinh tế gia đình, xoá đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp; tổ chức
các hoạt động tình nghĩa để cựu chiến binh tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong
cuộc sống.
-
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cựu chiến binh; tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật, tư vấn, trợ giúp pháp lý cho cựu chiến binh.
-
Tiến hành các hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần thực hiện đường lối, chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
-
Phối hợp với các tổ chức thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan
quân sự giáo dục truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí tự
lực, tự cường cho thế hệ trẻ.
Vai
trò của Chi hội Cựu chiến binh 16 đã đóng góp ngày càng hiệu quả cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kể từ ngày thành lập đến nay, hoạt động của Chi hội
ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực: Chi hội đã tích cực chăm lo đời sống
hội viên, cựu quân nhân thông qua chủ trương xóa đói giảm nghèo; vận động quần
chúng nhân dân khắc phục các điểm nóng, hòa giải tranh chấp, mâu thuẫn trong
nội bộ nhân dân; thực hiện cuộc vận động toàn dân đòan kết xây dựng đời sống
văn hóa, bảo vệ trật tự trị an, an toàn xã hội, xây dựng mối đoàn kết, tương trợ
tình làng nghĩa xóm ở Tổ dân phố và Địa bàn dân cư. Nội bộ Chi hội luôn thể
hiện tinh thần đoàn kết, gương mẫu và đổi mới, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau,
cùng nhau vượt khó, vươn lên trong cuộc sống. Bên cạnh đó Chi hội còn tổ chức
nhiều hoạt động khoa giáo phong phú, đa dạng, hiệu quả và thiết thực: nói
chuyện truyền thống, kháng chiến, giáo dục truyền thống cách mạng cho học sinh,
sinh viên thực hiện các nội dung về nguồn, hướng dẫn tham quan các di tích lịch
sử cách mạng…
Chi
hội luôn coi trọng việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cách
mạng cho các cán bộ, hội viên. Nhờ vậy, hội viên, cựu chiến binh tiếp cận nhanh
với những vấn đề thời sự, định hướng được tư tưởng trước những sự kiện lớn,
những biến động phức tạp, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng, tin
tưởng vào đường lối đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng. Phạm vi hoạt động rộng
đã giúp Chi hội hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của cựu chiến binh và nhân dân, chủ
động tham gia đóng góp ý kiến cho cấp uỷ, chính quyền các cấp về các vấn đề
chính trị - xã hội. Chi hội còn kịp thời phát hiện, đề xuất giải pháp và tham
gia tích cực trong việc giải quyết các vụ việc phức tạp, nổi cộm, kiên quyết
đấu tranh với những quan điểm sai trái, những biểu hiện tham nhũng, quan liêu ở
cơ sở, góp phần ổn định tình hình chính trị địa phương. Các phong trào quần
chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội hay huấn
luyện dân quân tự vệ, diễn tập phòng thủ đều không thể vắng mặt những cựu chiến
binh.
Bên
cạnh những ưu điểm nêu trên, hoạt động của Chi hội Cựu chiến binh cũng còn
những thiếu sót, khuyết điểm. Công tác chính trị, tư tưởng, có lúc, có nơi chưa
nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của cựu chiến binh, chưa chủ động giải
quyết các vấn đề của thực tiễn đặt ra. Số hộ khá và giàu chưa nhiều. Nền nếp,
chế độ sinh hoạt của một số tổ chức hội chưa đúng quy định; chất lượng sinh
hoạt và hình thức hoạt động chưa thiết thực, chậm đổi mới. Công tác phối hợp
với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể chưa
thật chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Thực hiện nhiệm vụ giám sát và phản biện xã
hội có mặt còn hạn chế.
Bà con rất
tha thiết tái hiện lại lễ hội làng như là một cách tìm lại quá khứ, để định hướng
cho ổn định tâm lý, vững vàng xây dựng đời sống văn hóa tại cộng đồng dân cư. Bởi
vì thực tế đã chứng minh làng xã xưa đang chuyển biến mạnh mẽ trên con đường đô
thị hóa. Tất cả các vùng đất xưa gọi là thôn, làng, nay đã lên tổ dân phố, xã
lên phường. Nhưng người dân vẫn có nhu cầu giữ lại hồn làng.
Phục dựng lại
lễ hội mới thấy cộng đồng dân cư được kết nối. Thay vì lối sống nhà nào biết
nhà nấy như mọi ngày, người dân nơi đây khấp khởi chờ hội, chuẩn bị cho lễ hội.
Trẻ em háo hức chờ xem múa lân, xem chọi gà, kéo co. Xem dựng cây nêu, xin chữ
ông đồ cầu may trong năm mới. Người già chuẩn bị cho việc cúng lễ, dâng hương.
Bà con khác chuẩn bị cho công tác gói bánh chưng, người rửa lá, người đãi đỗ,
người vo và ngâm gạo và gói bánh chưng. Trong khi thực hiện nghi lễ này mọi người
trò chuyện vui vẻ tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau, củng cố tình làng nghĩa xóm,
tổ chức tặng quà chia sẻ yêu thương đến những người có hoàn cảnh khó khăn.
Việc này đã
được thực hiện trên địa bàn Tổ 21 phường Láng Hạ. Mong sao những sự kiện như thế
này tiếp tục được gìn giữ và phát triển.
PHẠM THÚY LAN (sưu tầm và tổng hợp)
Tại vùng Phù Cát, Phù Mỹ, Tuy Phước tỉnh Bình Định có bốn ngôi chùa được những người họ Phạm xây cất vào cuối thế kỷ XVIII, là Thiên Phước Tự, Thiên Đức Tự, Linh Sơn Tự, Phước Hải Tự trong đó có ngôi chùa Linh Sơn Tự được dân gọi là "CHÙA HỌ PHẠM". Ngôi chùa này ở lưng chừng núi mà chân núi có MỘ TỔ THẤT LINH CỐT HỌ PHẠM (ngôi mộ Tổ Họ Phạm có 7 hài cốt). Điều đó đã thu hút được sự chú ý của nhiều người trong đó có tôi.
Tôi đã tìm mọi cách tìm hiểu và tiếp cận tư liệu về vấn đề này.
May thay, tôi được anh Phạm Long Hoàng, Phạm Văn Ngọc, Phạm Văn Phong, người
của dòng họ Phạm An Xuyên đã cung cấp cho các tài liệu của bác Phạm Long Hiện
(Nhâm Thân-1932 - Quý Ty- 2014), đời thứ X của dòng họ Phạm An Xuyên- Phù Mỹ.
Trong phạm vi bài này, tôi chỉ đề cập những nét cơ bản liên quan đến sự hình
thành dòng họ Phạm ở huyện Phù Mỹ và Phù Cát tỉnh Bình Định, là dòng họ lớn đã
lan tỏa thành nhiều nhánh họ Phạm của tỉnh Bình Định.
Với mong muốn tìm ra tông tích dòng họ mình, bác Phạm Long Hiện
đã xuất phát từ 2 nguồn tư liêu: một là, tìm đến chùa Phước Hải ở Cát Minh, Phù
Cát, nơi có tư liệu được lưu giữ bằng chữ Hán, do ông Phạm Như Ý dịch và hai
là, bản gia phả của họ Phạm ngành Phú Dõng mà tổ là Ngài Phạm Viết Huệ do ông
Nội anh Phạm Thắng ở Phú Dõng cất giữ. Từ năm 1992 bác đã đi khắp nơi, không
chỉ các huyện trong tỉnh mà còn cả các tỉnh trong vùng như Ninh Thuận, Bình
Thuận để tìm tư liệu lập nên bản PHẠM TỘC TÔNG ĐỒ, lại viết cả Lai Lịch Phạm
Tộc Tông Đồ kể về quá trình hình thành họ Phạm ở Phù Mỹ, Phù Cát nữa. Bác Phạm
Long Hiện đã bán căn hộ ở số 55 đường Lê Thánh Tôn TP Nha Trang, Khánh Hoà để
lấy kinh phí đi lại và các hoạt động cần thiết khi làm Tộc phả. Những tư liệu
hiện nay của họ Phạm ở 2 huyện Phù Cát & Phù Mỹ, Bình Định có được là nhờ
kết quả công trình tìm hiểu này của bác Phạm Long Hiện, nguyên Trưởng Ban Liên
lạc Họ Phạm tỉnh Khánh Hòa. Bác đã bỏ cả công, sức, thời gian, tiền của để đi
tìm hiểu cội nguồn của mình và của cả dòng họ Phạm 2 huyện Phù Cát & Phù
Mỹ, tỉnh Bình Định. Công lao của bác thật lớn, không phải ai cũng có đủ tấm
lòng, trình độ, phương pháp và cả … tài chính nữa để làm một công việc vất vả
và ý nghĩa cao cả như thế! Thật đáng kính nể và trân trọng!
Tôi xin tóm tắt câu chuyện sau khi đã bước đầu nghiên cứu tư
liệu của họ Phạm huyện Phù Cát & Phù Mỹ, Bình Định như sau:
Cách đây gần 300 năm, vào cuối thế kỷ thứ XVIII, nước ta trong
thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh. Vào đời vua Lê Ý Tông (1735 - 1740), ở Đàng
Ngoài Uy Nam Vương Trịnh Giang (1729 -1740) nắm quyền bính lại hoang dâm vô
đạo, đào hầm dưới lòng đất để ăn chơi, giết hại cả vua lẫn quan, dân tình đói
khổ… Trong khi đó ở Đàng Trong các Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi, chiêu mộ dân
Đàng Ngoài vào khai khẩn ruộng đất phì nhiêu mênh mông đang còn bỏ hoang. Trong
bối cảnh đó có một đoàn họ Phạm từ xã Lao Khê, huyện Tân Minh, phủ Nam Sách,
tinh Hải Dương đã rời quê hương vào Nam làm ăn lập nghiệp. Các ngài lúc đó là
Tổng Trấn Cao Bằng, Tổng Đốc Nghệ An, năm 1738 treo ấn từ quan, năm 1739 quyết
định đưa cả 3 gia đình di cư vào Nam lập nghiệp, trước khi đi bốc toàn bộ hài
cốt của liệt vị Đại Thủy Tổ Tiền Hiền gồm bảy hài cốt mang theo. Đoàn gồm có ba
anh em con cụ Phạm Viết Thái là Phạm Viết Trung, Phạm Viết Ninh và Phạm Viết
Huệ mang theo 7 hài cốt tổ tiên - ba vị này chính là Tổ Tiên của Họ Phạm ở 2
huyện Phù Cát & Phù Mỹ , Bình Định ngày nay, với hai anh em tộc họ đồng
đường cùng đi (không rõ tên).
Trong khoảng thời kỳ đầu, từ năm 1739 đến 1744 rồi tiếp đến
1802, các vị đã tổ chức khai khẩn để cơ bản hình thành được một vùng đất đai
rộng lớn của hai huyện Phù Mỹ, Phù Cát bây giờ. Rồi đời nối đời tới nay, sau
gần 300 năm, đã có 14 thế hệ với hàng vạn người họ Phạm sinh sống nơi đây. Như
vậy là, Họ Phạm ở 2 huyện Phù Cát & Phù Mỹ, Bình Định bắt nguồn từ một ngài
PHẠM VIẾT THÁI với ba người con trai là các ông: PHẠM VIẾT TRUNG, PHẠM VIẾT
NINH, PHẠM VIẾT HUỆ, đó chính là ĐẠI THỦY TÔ HỌ PHẠM của 2 HUYỆN: PHÙ CÁT &
PHÙ MỸ, BÌNH ĐỊNH. Với bao tâm lực, trí lực, công sức Tổ tiên đã tạo nên một
vùng cư dân rộng lớn và các dòng họ Phạm: Họ Phạm An Trinh, An Xuyên - Phù Mỹ
với Thủy tổ là Phạm Viết Trung; Họ Phạm Đức Phổ - Phù Cát với Thủy Tổ là Phạm
Viết Ninh; Họ Phạm Phú Dõng - Phù Cát với Thủy Tổ là Phạm Viết Huệ. (Ai muốn
tìm hiểu kỹ, chi tiết về quá trình khai khẩn của Tổ Tiên và hình thành họ Phạm
ở Phù Mỹ, Phù Cát xin đọc ở LAI LỊCH PHẠM TỘC TÔNG ĐỒ). Xin xem ảnh LỤC ĐẠI
TRƯỞNG NAM DĨ HẠ kèm theo.
Có một điều đặc biêt là Tổ Tiên đã mang theo những bức tượng
Phật nhỏ từ Hải Dương vào, đình trú ở đâu là lập Chùa ở đó để tu dồi đạo hạnh!
Những tấm gương ấy cao quý và thánh thiện biết bao, từ thượng cổ mấy ai làm
được! Ít lâu sau, bên cạnh 3 vị Đại Thủy Tổ còn có thêm hai ngài Phạm Trường
Xuân và Phạm Trường Thọ (chưa biết chính xác là con cháu của vị nào trong 5 vị
Đại Thuỷ Tổ) đã cùng đi xây dựng chùa chiền.
Thế là hình thành đươc một vùng đất đai và 4 ngôi chùa do người
họ Phạm xây từ giữa thế kỷ XVIII: Chùa Thiên Phước ở An Trinh, Mỹ Hiệp, Phù Mỹ
(năm 1739); Chùa Long Sơn Tự (Chùa Hang) ở Gia An, Cát Minh, Phù Cát (năm
1740); Chùa Phước Hải ở Đức Phổ, Cát Minh, Phù Cát (năm 1741); Chùa Thiên Đức ở
thôn Hiếu Lễ, xã Phước Hưng, huyện Tuy Phước (1865). Có điều lạ là thường thì
tất cả các vị đi tu đều mang họ Thích, riêng 2 Ngài họ Phạm đi tu thì vẫn giữ
nguyên họ Phạm, như ngài Phạm Trường Xuân ở chùa Thiên Đức, ngài Phạm Trường
Thọ ở chùa Thiên Phước, trong bia mộ cũng như trước cổng chùa đều ghi tên các
ngài mang Họ Phạm. Còn Linh Sơn Cổ Tự nằm trong hang đá thì chùa Thờ Tổ Tiên
dòng Họ Phạm và được gọi là CHÙA HỌ PHẠM. ...
Bảy bộ hài cốt Đại Thủy tổ mà các ông mang theo từ Hải Dương vào
được an táng thành một mộ chung rất lớn dưới chân núi LINH SƠN TỰ tại Lò Đo xứ
(Láng Cây sung), thuộc sơn phận thôn Gia An, xã Cát Minh, huyện Phù Cát ngày
nay gọi là ngôi mộ “NHẤT MỘ THẤT CÔT” hoặc “MỘ TỔ THẤT LINH CỐT” là mộ ĐẠI TIỀN
HIỀN HỌ PHẠM của họ Phạm ở 2 huyện Phù Cát & Phù Mỹ, Bình Định.
Còn linh vị 3 Ngài Thủy Tổ Phạm Viết Trung, Phạm Viết Ninh và
Phạm Viết Huệ được thờ tại Chùa Phước Hải ở Đức Phổ, Cát Minh, Phù Cát cho đến
ngày nay. Riêng ngài Phạm Trường Xuân thì thờ ở chùa Thiên Đức, ngài Phạm
Trường Thọ thờ ở chùa Thiên Phước là các chùa do các ngài lập nên.
Còn về vùng dân cư, vượt bao nhiêu khó khăn gian nan vất vả, ba
ông (từ đây gọi là Tổ Tiên họ Phạm Phù Cát, Phù Mỹ) chọn vùng đất “lợ”, lại gần
đường Quốc Lộ 1 để lập cư, có sông La Tinh là ranh giới 2 huyện, và có đầm Đạm
Thủy nằm ở cả hai huyện. Nhờ đó mà hậu thế dễ dàng sinh sống bằng đủ thứ nghề:
phía trên, nơi có sông nước ngọt thì làm ruộng, trồng màu, chăn nuôi, buôn bán,
làm nghề thủ công; phía dưới có biển đầm nước mặn thì làm chài lưới, làm muối,
làm mắm,.. Địa thế Phù Mỹ, Phù Cát thì gần chợ, gần sông, gần đầm, gần tỉnh lộ,
thuận lợi mọi măt cho đời sống và phát triển.
NHÀ THỜ HỌ PHẠM được dựng từ khoảng những năm 1740 ở An Trinh
(xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ), nơi đầu tiên tổ tiên đã đình trú khi đến Bình Định.
Nhà thờ đã được sửa chữa, tu bổ nhiều lần và lần gần đây nhất là năm 2016. MỘ
TỔ THẤT LINH CỐT- ĐẠI THỦY TỔ TIỀN HIỀN HỌ PHẠM qua thời gian cũng bị xuống cấp
nghiêm trọng. Cả hai công trình : Nhà thờ họ Phạm và Mộ Tổ Thất Linh Cốt được
các ông bà Phạm Đình Thu, Phạm Hồng Nga, Phạm Thành Phước chủ trì đóng góp kinh
phí và bà con trong họ kẻ ít người nhiều góp công của để tu tạo lại. Sau hơn 2
tháng thi công, cả hai công trình Nhà thờ họ Phạm và Mộ Tổ Thất linh Cốt – Đại
Thủy Tổ Tiền hiền họ Phạm hai huyện Phù Cát, Phù Mỹ, tỉnh Bình Định đã được
hoàn thành. Lễ Khánh thành tôn tạo tu bổ đã được long trọng tổ chức theo các
nghi thức cổ truyền vào lúc 7 giờ, ngày 12-10-2016 (nhằm ngày 12 tháng 9 Bính
Thân) tại Gò Kho, thôn Xuân An (Gia An cũ), xã Cát Minh, huyện Phù Cát, tỉnh
Bình Định.
Trong những cuốn gia phả, những di cảo, tông chi tông đồ lập
bằng chữ Hán của Tổ Tiên họ Phạm Phù Mỹ, Phù Cát tỉnh Bình Định có ghi địa danh
Đất Tổ hồi bấy giờ, trích nguyên văn như sau:
“Đại Việt quốc, Quảng Nam đạo, Quy Nhơn phủ, Phù Ly huyện, Bài
Bàn xã, Gia Hội thôn, Gia An ấp, trú tại Hoa Lư phường, Hoa Phố ấp, cư phụng…
Hải Dương đạo, đồng tựu LINH SƠN TỰ trú phụng. Phần mộ Thủy Tổ nghinh cốt lưu
đáo Hoa Phố ấp, trí khu Lò Đo. Thất cốt hội táng nhất huyệt tại Tây Phương, mộ
phương trường Đại Thủy Tổ tại sơn phận Gia An ấp, cập tử tôn châu long dĩ hạ….
(mạch núi quý như ngọc lưu lại con cháu đời sau)”.
Tôi xin dùng những lời cuối bản LAI LỊCH PHẠM TỘC TÔNG ĐỒ của
bác Phạm Long Hiện làm lời kết bài viết sưu tầm và tổng hợp của mình:
Họ Phạm Phù Mỹ và Phù Cát tỉnh Bình Định mang ơn và tự hào về Tổ
Tiên của mình, thấm thía rằng “Tổ tiên ta đã dày công khai nghiệp cho con cháu
ở cả 8 vùng, hầu hết đều thành đạt, phú túc trên 200 năm (1739 - 1945) kéo dài
đến đời thứ 9, qua đời thứ 10 thì sa sút vì đất nước lâm cảnh chiến tranh,
ngoại lai làm phân hóa, con cháu phải phiêu bạt. Đời nối đời, hiện nay đã có
hàng vạn người họ Phạm ở Bình Định. Hàng vạn người chung huyết thống nhưng ắt
có hàng vạn cuộc sống khác nhau. Xin đừng để cuộc sống khác nhau đó chi phối
dòng tộc ta, gây xói lở tình đoàn kết anh em, con cháu mà đắc tội với tiền
nhân.
Con cháu hãy nhớ rằng:
KIỀU MỘC THIÊN CHI NGUYÊN NHẤT BẢN
TRƯỜNG GIANG VẠN PHÁI THỊ ĐỒNG NGUYÊN
Nghĩa là “Cổ thụ ngàn cành do có một gốc
Sông dài vạn nhánh, quy về một cội”
Xin giữ lời vàng ý ngọc này để làm triết lý cho “đạo làm người”.
Còn cuộc sống của chúng ta, xét cho cùng cũng chỉ là giai đoạn, huyết thống mới
là “vĩnh hằng” !”.
Riêng tôi, vẫn còn muốn tìm xem Tổ Tiên họ Phạm 2 huyện Phù Mỹ
và Phù Cát, tỉnh Bình Đình có nguyên quán tại XÃ LAO KHÊ, HUYỆN TÂN MINH, PHỦ
NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG xưa biết đâu lại chính là hậu duệ dòng họ danh giá của
Tướng quân Lệnh Công PHẠM CHIÊM thời Ngô Quyền quê ở vùng Trà Hương thuộc lộ
Nam Sách Giang, nay là làng Thụy Trà, xã Nam Trung, Nam Sách, Hải Dương ở ngay
gần đó.
Đó là vấn đề cần được hậu duệ của Đại Thủy Tổ với sự gíup sức
của giới sử học tìm hiểu, nghiên cứu thêm để kết nối dòng họ thêm sâu rộng, có
thêm sức mạnh làm cho họ ta trường tồn và phát triển
(Xin được Phạm Long Hoàng, Phạm Đình Đôn, Phạm Văn Ngọc,...bổ
sung và chỉnh lý cho đầy đủ và hoàn chỉnh hơn - hiện bị mất liên lạc với Phạm
Hồng Nga).
Tư vấn hướng nghiệp và phát triển nguồn nhân lực cho
các cháu trên Địa bàn
1. Phương thức đào tạo:
– Cung cấp kiến thức
tổng quan về báo chí và hiểu được các thể loại cơ bản: tin, phản ánh, phỏng
vấn, ảnh báo chí…
– Rèn luyện kỹ năng
thực hành để xây dựng một tác phẩm báo chí: tìm kiếm đề tài, xử lý thông tin,
kỹ năng phỏng vấn, kỹ năng tổ chức bài viết, kỹ năng biên tập…
– Phân tích, các tác
phẩm báo chí để chữa các lỗi sai trong quá trình tác nghiệp.
– Rèn luyện tính năng
động, sáng tạo, xây dựng các mối quan hệ và mở rộng hiểu biết xã hội.
Học:
- Quay phim
- Đọc lời bình
- Viết tin bài
- Xây dựng phóng sự
- Xây dưng tiểu phẩm ngắn
- Diễn kịch
- Kể chuyện
- Dựng phim cơ bản
- MC dẫn chương trình.
- Phỏng vấn
2. Kỹ năng báo chí:
Kỹ năng viết báo cơ
bản: viết tin, phỏng vấn, viết bài, tường thuật hội thảo, hội nghị, sự kiện,
cách triển khai tin bài, tổ chức trang báo, kỹ năng dàn trang báo, xây dựng Bản
tin/tạp chí lưu hành nội bộ
3. Kỹ năng tổ chức sự kiện
Cách lên ý tưởng và tổ chức một sự kiện cụ thể
như hội nghị, hội thảo, các sự kiện văn hóa, thể thao, lễ khai trương, khánh
thành, giao lưu gặp mặt …
4. Kỹ năng quảng cáo trên Internet
Phương pháp, kỹ năng để có thể tạo một Fanpage Facebook đẹp mắt, thu hút lượng người truy cập lớn, thu hút hàng “triệu like” của các đối tượng độc giả, cách viết nội dung quảng cáo một sản phẩm trên facebook.
B. Thời lượng học tuần học 1-2 buổi vào cuối
tuần 60phút/buổi
Kết thúc khóa học các
cháu tham gia làm bản tin khu phố
C. Sĩ số lớp: Lớp học 7-8 cháu (nếu
đông có thể thi tuyển xem các cháu có năng khiếu hay không)
D. Giáo viên: Đạo diễn,
nhà báo Ngô Văn Long cư dân địa bàn
E. Học phí: 200.000
đồng/tháng (Học liệu và điện nước)
F. Phụ trách chung Tổ
trưởng tổ dân phố 21 ông Nguyễn Đại Điền