Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2018

Nam Sách - vùng đất địa linh nhân kiệt


Trong hình ảnh có thể có: 5 người, bao gồm Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Đại Điền và Nguyễn Thị Hạnh, mọi người đang cười, mọi người đang đứng và trong nhàNam Sách là một huyện nằm ở trung tâm tâm của tỉnh Hải Dương, giữa tam giác kinh tế Hà Nội Hải Phòng và Hà Nội Quảng Ninh. Từ đầu công nguyên đã biết đến Nam Sách là nơi đồn trú và cung cấp quân lương cho các triều đại của Việt Nam. Nam Sách là vùng đất hiếu học, Nam Sách hay còn gọi là sách của trời Nam. Nhiều những di tích lịch sử, những nét văn hóa độc đáo minh chứng cho điều này.





Trong hình ảnh có thể có: 5 người, bao gồm Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Đại Điền và Nguyễn Thị Hạnh, mọi người đang cười, mọi người đang đứng và trong nhà

Bến Bình Than "Đại Việt Sử ký toàn thư" viết: “Mùa đông, tháng 10 (năm 1282), vua ngự ra Bình Than đóng ở vũng Trần Xá họp vương hầu và trăm quan, bàn kế sách công thủ và chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu”. Theo "Đồng Khánh dư địa chí", thì Bình Than là nơi hội tụ của 4 con sông: Thiên Đức, Nguyệt Đức, Nhật Đức và sông ở huyện Phượng Nhãn rồi chia thành hai nhánh mới, một nhánh chảy về phía nam làm thành Hàn Giang (sông Thái Bình), một nhánh chảy về phía đông làm thành sông Thủ Chân (sông Kinh Thầy) nên gọi là sông Lục Đầu.

Đánh quân Nguyên Lần 2. Bình Than (1282) bàn về chiến lược đánh giặc của tướng soái và quân nhà Trần.Ý thức được rằng, muốn chiến thắng được đội quân khổng lồ của nhà Nguyên, cần có sự tham gia của nhân dân[2].

- Sách của trời Nam
- Trong thời kỳ phong kiến Hải Dương có 12 vị đỗ đại khoa (Thủ khoa Đại Việt hay Trạng nguyên) thì riêng huyện Nam Sách có 6 vị là:
Tiến sĩ nho học có số người đỗ tiến sĩ nhiều nhất cả nước, tới 125 tiến sĩ nho học. tính theo cấp huyện

- Có lịch sử lâu đời, họ Phạm, Họ Mạc
Chùa An Ninh, Chùa được xây dựng với quy mô lớn vào thế kỷ XVII và được trùng tu nhiều lần vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Chùa gồm nhiều công trình nhỏ, kiến trúc liên hoàn khép kín trên một diện tích trên 1.000 m2.
Chùa TrămGian HảiDương.jpg

Cổ vật của chùa Vĩnh Khánh có nhiều, tuy đã bị thất lạc và huỷ hoại, nay vẫn còn với số lượng hàng trăm, trong đó có 57 pho tượng, 12 đại tự, 12 câu đối, 738 bản khắc kinh phật… Trong số tượng phật có tượng Trúc lâm Tam tổ. Chùa còn 7 bia đá, khắc dựng vào các năm Chính Hoà 22(1701), Vĩnh Thịnh thứ 2 (1706), Gia Long thứ 8 (1809)… Đây là những trang lịch sử quý báu, qua đó có thể hiểu lịch sử ngôi chùa qua từng năm tháng. Chùa Vĩnh Khánh có giá trị lớn về lịch sử và văn hoá mà tiêu biểu là kiến trúc và cổ vật. Từ ngôi chùa này, chúng ta có thể hiểu những ngôi chùa trăm gian tương tự cùng thời mà nay không còn. Trải qua hai cuộc kháng chiến, lại nằm trong vùng chiến tranh ác liệt, chùa Vĩnh Khánh còn lại đến hôm nay, tuy không nguyên vẹn nhưng cũng là một sự may mắn, đồng thời cũng biểu hiện sự trân trọng của chính quyền và nhân dân địa phương đối với di tích.
Gốm cổ Chu Đậu, Tuy nhiên, gốm Chu Đâu tại Việt Nam ít người biết đến cho đến khi có sự việc ông Makoto Anabuki - cán bộ ngoại giao Nhật Bản tại Tokyo nhờ tìm hiểu về xuất xứ chiếc bình gốm hoa lam tại Bảo tàng Topkapi Saray, Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) do ông nghi ngờ đây là bình gốm Việt Nam chứ không phải là Trung Quốc[1] và sự việc khảo sát và khai quật con tàu đắm ở Cù lao Chàm(Quảng Nam)
Trên bình có 13 chữ Hán: “Thái Hòa bát niên Nam Sách châu tượng nhân Bùi Thị Hý bút”, tạm dịch là “Năm Thái Hòa thứ tám (đời vua Lê Thánh Tông 1450), thợ gốm Bùi Thị Hý vẽ
+Năm 1980, nhà KCH người Nhật Makato Anabuki chụp ảnh chiếc bình này gửi cho ông Tăng Bá Hoành (nguyên Giám đốc Bảo tàng tỉnh Hải Dương) để xác minh lai lịch chiếc bình này. Ông Tăng Bá Hoành đã nỗ lực rất lớn trong việc xác định niên đại, nguồn gốc của chiếc bình Tokapi Saray nói trên và đã tìm ra thân thế của người đã “ký tên” lên món đồ gốm này. Đó chính là bà Bùi Thị Hý, sinh năm 1420 mất năm 1499, quê ở Nam Sách, Hải Dương, vợ của ông Đặng Sỹ, chủ một lò gốm rất lớn ở Chu Đậu lúc bấy giờ. Bà chính là người đã viết chữ và vẽ hoa văn cho rất nhiều món đồ gốm Chu Đậu trong đó có chiếc bình ở Bảo tàng Tokapi Saray.
+ Những đồ gốm này có niên đại vào thế kỷ XV và được khu lò Chu Đậu - Mỹ Xá thuộc tỉnh Hải Dương sản xuất. Chúng gồm các dòng gốm: gốm hoa lam, gốm vẽ nhiều màu, gốm men xanh ngọc, gốm men màu xanh dương thẫm, gốm men trắng, gốm men nâu, gốm men sành…
+Dòng gốm này có 18 chủng loại chính, hơn 100 chủng loại phụ như đĩa, bát, bình, chén, quả đào có gắn tượng vẹt, các loại ấm trà, các loại nậm, ống nhổ, bình vôi, tượng người quỳ nâng bình rượu, tượng cô tiên, các loại tượng động vật (sư tử, voi, cua, cá…). Trong số đó có một số đồ gốm lần đầu tiên được phát hiện như chiếc bát hoa lam vẽ rồng. Đặc biệt, có loại mỏng như vỏ trứng được dập hình chìm hoa lá và rồng.
+ Đặc biệt góp phần minh chứng thế kỷ XV - XVI, Việt Nam đã tham gia một cách tích cực vào con đường tơ lụa - gốm sứ trên biển Đông nối Đông - Tây trong khu vực.

Năm 2003 khôi phục lại

 Đền Mạc Đĩnh Chi, đền Long Động được xây từ khi Mạc Đĩnh Chi qua đời (1346). Đền thờ 3 vị đại khoa họ Mạc của xã là Mạc Hiển Tích, Mạc Kiến Quan và Mạc Đĩnh Chi. Theo các tài liệu lịch sử đã công bố thì: Mạc Hiển Tích là người xã Lũng Động, huyện Chí Linh (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách) sinh vào giữa thế kỷ XI. Khoa thi năm Bính Dần, niên hiệu Quảng Hựu thứ 2 (1086), ông đỗ đầu, tương đương Trạng nguyên các đời sau. Ông là người được chọn làm Hàn lâm học sĩ đầu tiên, làm viêc ở viện Hàn lâm, sau thăng lên Thượng thư. Ông có biệt tài về chính trị, từ đi sứ Chiêm Thành năm Hội Phong thứ 4 (1094). Tương truyền Mạc Hiển Tích lạm dụng quyền hành, tư thông với Thái hậu, nhưng trong triều ai cũng sợ uy danh của ông, không dám phán xét. Hiện nay tại đền Lũng Động còn bia ghi sự tích về Mạc Hiển Tích.
Mạc Kiến Quan, em ruột của Mạc Hiển Tích, đỗ đầu khoa thi (Tiến sĩ thuỷ tuyển) năm Kỷ Tỵ(1089) làm quan đến chức Thượng thư Bộ Công.


Khoa thi Thái học sinh năm Giáp Thân, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1304), ông đỗ Trạng nguyên. Vua Trần Anh Tông có ý chê ông xấu, ông bèn làm bài phú Ngọc tỉnh liên để tự ví mình với cây sen. Vua Trần Anh Tông khen hay, cất nhắc lên làm Thái học sinh hoả dũng thủ sung nội thư gian.
Năm Hưng Long thứ 16 (1308), ông đi sứ nhà Nguyên bên Trung Quốc, do tài ngoại giao kiệt xuất và văn chương ứng đối kỳ diệu được vua Nguyên phong Lưỡng Quốc Trạng nguyên năm 1313 và giữ chức tả bộc xạ (tức quan thượng thư), từ 1329 - 1341 đời vua Trần Hiến Tông ông giữ chức nhập nội đại hành hiển, kiên trung thư, chi quân trọng sự (tức là đại niên mang).
Tính ông ngay thẳng, liêm khiết, được người đương thời trọng vọng, khâm phục. Sau khi về chí sỹ, ông mở trường dạy học, nơi ấy thời sau gọi là Trạng nguyên cổ đường, được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ. Trải qua nhiều biến cố, Cổ đường bị hư hại, nay đã được khôi phục. Ông mất năm Bính Tuất, niên hiệu Thiệu Phong thứ 6 (1346).
Tác phẩm của ông còn lưu đến nay có :
- Ngọc tỉnh liên phú.
Một số bài thơ và câu đối chép trong Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục.
Năm 2004, tỉnh Hải Dương đã đúc tượng Mạc Đĩnh Chi để thờ trong Văn miếu Mao Điền. Tại Long Động, đền thờ, lăng mộ danh nhân từng bước được trùng tu, khôi phục.
Ngày 26-6-1995, Bộ Văn hoá Thông tin đã ra Quyết định số 2233 xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia đối với  Đền Long Động.
Phủ mẫu bà Đồng The
Trong hình ảnh có thể có: 4 người, bao gồm Nguyễn Thị Hạnh và Đại Điền, mọi người đang cười, mọi người đang đứng
4 lần bác Hồ về Thăm
Chuyện cô du kích xóm Lai Vu/ Rắn quấn bên chân, vẫn bắn thù/ Mỹ hại trăm nhà, lo diệt trước/ Rắn mình em chịu, có sao đâu"
Sông Kinh Thầy, hay còn gọi là sông Kinh Thày là điểm nối giữa sông Thái Bình và các sông vùng Đông Bắc. Sông có chiều dài 44,5 km, sông tách ra từ sông Thái Bình đoạn ở thôn Lâu Khê, xã Nam Hưng, huyện Nam Sách (tỉnh Hải Dương), chảy theo hướng Đông Nam, giữa thị xã Chí Linh và huyện Nam Sách. Điểm cuối của sông Kinh Thầy chính là bến Lục Đầu Giang lịch sử.
Bao phen giặc ngoại xâm từ đường thủy qua cửa Bạch Đằng vào sông Kinh Thầy rồi tập kết ở sông Lục Đầu trước khi tấn công vào kinh thành Thăng Long. Do vậy, nơi đây được chọn là điểm quyết chiến chiến lược, có nhiều cuộc thủy chiến dữ dội xảy ra trong lịch sử mà lớn nhất là chiến thắng mang tên Vạn Kiếp năm 1285 của quân dân thời nhà Trần trước giặc xâm lược Nguyên Mông. Sông Kinh Thầy cùng sông Lục Đầu trở thành mồ chôn của biết bao quân thù.

"Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay …"

Sông Kinh Thầy - con sông anh dũng, con sông hiền hòa, con sông dịu dàng như lời mẹ ru đã đi vào tâm thức của những người con đất Hải Dương.
"Quê tôi ai cũng có một dòng sông bên nhà

Con sông quê gắn bó với tuổi thơ đời tôi

Bao năm xa quê ấy trong mơ tôi vẫn thấy

Hôm nay tôi trở về lòng chợt vui thấy sông không già".
Phương Thảo
Và hôm nay đây 15/11/2018 Đoàn Chi bộ, Chi hội phụ nữ Cụm dân cư số 19 Phường Láng Hạ về thăm vùng địa linh nhân kiệt này!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét